danh chính ngôn thuận

Danh chính ngôn thuận; Mượn ca khúc của Rosé (BlackPink), Thiều Bảo Trâm muốn nhắn nhủ điều này đến Sơn Tùng M-TP? 468 liên quan. Phải chăng ngày Thiều Bảo Trâm và Sơn Tùng công khai sắp đến gần? Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vừa có công văn chấp thuận đề nghị tăng vốn điều lệ của Nhân hàng Thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank - HoSE: LPB).. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước chấp thuận việc LienVietPostBank tăng vốn điều lệ thêm tối đa hơn 5.255 tỷ đồng dưới hình thức phát hành cổ Tại chương trình này, ông Trần Đức Anh khẳng định, giá của ngành ngân hàng trong năm nay sẽ không thể cao được như thời điểm năm 2020-2021 vì bối cảnh kinh doanh đã không còn thuận lợi như trước. Chính vì thế, ngân hàng rất khó để có thể trở thành ngành dẫn dắt Trong khi đó, Tổng thống Macron từng hứa sẽ trao cho vợ ông một vị trí "danh chính ngôn thuận" trên cương vị đệ nhất phu nhân Pháp. Tuy nhiên, nhà lãnh đạo Pháp tuyên bố vợ ông sẽ không được nhận tiền hỗ trợ từ công quỹ ngay cả khi trở thành đệ nhất phu nhân. Vay Tien Nhanh Home Credit. Nho gia giảng bề tôi trung thành’, nhưng trung’ ở đây có phải là trung thành một cách mù quáng? Tiếp theo Phần 5 Trên thực tế đạo quân – thần là quân nhân thần trung’, vua phải nhân ái thì thần mới trung thành. Nếu mỗi người đều làm tròn chức trách của mình thì đây chính là là khái niệm chính danh’ trong Nho gia. Trong Luận ngữ – Tử Lộ’, học trò của Khổng Tử là Tử Lộ có hỏi thầy mình rằng “Nếu vua Vệ mà giữ thầy lại, nhờ thầy coi chính sự thì thầy làm việc gì trước?”. Khổng Tử đáp “Ắt phải chính danh’ “. Tử Lộ không biết chính danh’ là gì, Khổng Tử mới nói “Anh thật là người không có giáo dục 1. Người quân tử không biết thì không nên nói bậy. Danh bất chính thì ngôn bất thuận. Ngôn bất thuận thì sự bất thành. Sự bất thành thì lễ nhạc không hưng khởi. Lễ nhạc không hưng khởi thì hình phạt không thích đáng. Hình phạt không thích đáng thì bách tính không biết làm gì mới đúng”. Ở đây Khổng Tử đã giảng một đạo lý chính là một người phải có “danh” chính đáng. Danh ở đây là chức vụ/chức vị. Danh này với quyền lực nên phù hợp và tương ứng với nhau. Chức vị khác nhau thì có ước thúc đạo đức khác nhau. Trong Luận ngữ – Nhan Uyên’ Khổng Tử nói rằng “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”. Điều Khổng Tử giảng không phải nhấn mạnh vào quân quyền’ hay là đại thần nên tôn kính quốc vương như thế nào đó, mà là vua’ quân nên ra dáng một vị vua. Vì sao vua phải ra dáng vua? Bởi vì danh’ của vua là quân’, làm chủ một đất nước, vậy thì khi vua làm việc phải ra dáng của một người chủ đất nước. Còn tình huống nước Vệ trong câu chuyện mà Tử Lộ đề cập đến thì không như vậy. Thời đó vua Vệ là Xuất Công Triếp, chống cự với cha là Khoái Quý. Mà Khoái Quý chống lại mẹ của ông vì bà dâm loạn. Mà Triếp lại được mẹ Khoái Quý bà nội Triếp đưa lên làm vua để cự lại Khoái Quý. Như vậy ở nước Vệ là cha không ra cha, con không ra con, vua không ra vua, tôi không ra tôi. Hơn nữa chức vị của mỗi người lại không tuân theo ước thúc đạo đức, do đó vua nói thì thần bên dưới không nghe. Vậy nên Khổng Tử mới nhấn mạnh “danh có chính thì ngôn mới thuận”. Tương tự như vậy, đại thần cũng nên ra dáng đại thần, phụ thân nên ra dáng phụ thân, con cái nên ra dáng con cái. Dù là quân – thần – phụ – tử, thì danh hiệu đó phải tương ứng với quyền lợi và nghĩa vụ mỗi người. Vậy nên Nho gia giảng rằng quân vương nên nhân ái, đại thần nên trung thành, phụ thân nên hiền từ và con cái nên hiếu thuận. Mỗi chức danh có yêu cầu về đạo đức tương ứng, mỗi chức danh làm những việc tương ứng, có thể khởi tác dụng như tấm gương soi chiếu đạo đức, thì đây là chính danh’ mà Khổng Tử giảng. Nếu một người làm không đến được chức vị của mình thì làm thế nào? Trong sách Mạnh Tử’ có một đoạn đối thoại như sau. Năm đó Tề Tuyên Vương hỏi Mạnh Tử rằng “Thành Thang phạt Kiệt, Vũ Vương phạt Trụ, sự việc như thế đã xảy ra chăng?”. Mạnh Tử đáp “Trong lịch sử có ghi lại chuyện như vậy”. Tề Tuyên Vương lại hỏi “Nếu như thế, thì Thành Thang và Vũ Vương đều là thần, còn Kiệt và Trụ đều là vua, mà thần nên trung với vua. Như vậy sự việc Thành Thang phạt Kiệt và Vũ Vương phạt Trụ chẳng phải là cấp dưới mạo phạm cấp trên’ sao?”. Mạnh Tử đã trả lời như sau “Cái nhân của nghịch tặc gọi là tặc’. Cái nghĩa của nghịch tặc gọi là tàn’ trong tàn bạo. Tặc’ và tàn’ gọi là nhất phu’ độc tài hại dân. Xưa nay chỉ nghe giết kẻ nhất phu’ là Trụ chứ chưa từng nghe giết vua”. Ý tứ rõ ràng hơn của câu trên chính là Nếu một quân vương không làm được nhân ái’ và chính nghĩa’ thì căn bản không phải là một quân vương, nói cách khác là danh’ không hợp. Quân vương mang danh là quân’ nhưng lại làm việc không giống như một quân vương, khi bại hoại đến một mức độ nhất định thì không còn là quân vương nữa, lúc này chỉ có thể là một kẻ độc tài hại dân hại nước mà thôi. “Xưa nay chỉ nghe giết kẻ nhất phu’ là Trụ chứ chưa từng nghe giết vua” chính là chúng ta chỉ biết kẻ độc tài hại dân hại nước là Trụ Vương bị giết chứ chưa nghe nói chuyện giết quân vương. Bởi vì tuy ông ta mang danh quốc vương nhưng lại làm quá nhiều chuyện thương thiên hại lý, cho nên cái danh’ ấy tự nhiên sẽ bị phế bỏ, lúc này chỉ còn là lại một kẻ độc tài hại dân mà thôi. Tóm lại, khái niệm chính danh’ mà Khổng Tử giảng là bạn làm việc phù hợp với chức danh và làm tròn bổn phận đạo đức của chính mình. >> Xem trọn bộ Nho gia mạn đàm Mạn Vũ Chú thích1 Nguyên gốc là Dã tai do dã – 野哉由也 Thời Trung Quốc cổ đại phân người là dã nhân’ 野人 và quốc nhân’ 國人. Quốc nhân’ là người trong thành và có giáo dục, còn dã nhân’ là người ở ngoài thành và không nhận được giáo dục. Trong cuộc sống, chúng ta thường nghe nói “danh chính ngôn thuận” hay “danh không chính thì ngôn không thuận”. Vậy câu thành ngữ này hàm chứa đạo lý gì và nguồn gốc ra đời như thế nào?Hình minh họa Qua cceduy“Danh chính ngôn thuận” là câu thành ngữ mang ý nghĩa chỉ danh nghĩa chính đáng. Khi một người có danh nghĩa chính đáng rồi thì nói mới được thông. Ngoài ra, nó cũng bao hàm ý nghĩa là khi làm một việc gì mà đã có lý do đầy đủ, chính đáng, đúng lý hợp tình thì sẽ thông thuận, dễ đạt được thành công. Còn một tầng ý nghĩa cao hơn, chính là làm người, làm việc phải thuận theo Thiên thành ngữ này xuất phát từ cuốn “Luận Ngữ. Tử Lộ” “Danh bất chính tắc ngôn bất thuận, ngôn bất thuận tắc sự bất thành, sự bất thành tắc lễ nhạc bất hưng, lễ nhạc bất hưng tắc hình phạt bất trúng, hình phạt bất trúng tắc dân vô sở thố thủ túc” ý nói, danh không chính tắc thì ngôn không thuận, ngôn không thuận thì sự sẽ không thành, sự không thành thì lễ nhạc không hưng thịnh, lễ nhạc mà không hưng thịnh thì hình phạt sẽ không thỏa đáng, hình phạt không thỏa đáng thì dân sẽ bối rối, không biết phải làm gì mới 501 trước công nguyên, Khổng Tử 51 tuổi làm quan Trung Đô Tề cho nước Lỗ. Một năm sau, vì có nhiều thành tích nên ông được đề bạt làm Tư Không, quản lý việc kiến thiết công trình. Sau đó không lâu, ông lại chuyển sang làm quan Tư Khấu. Khi Khổng Tử 56 tuổi, ông lại làm chức tướng quốc. Ông chỉ tham gia vào việc chính sự của nước Lỗ chỉ vẻn vẹn ba tháng, nhưng đã khiến cho tục lệ của Lỗ quốc cải biến rất quả của Khổng Tử khiến vua của nước Tề là Tề Cảnh Công cảm thấy sợ hãi. Ông ta đặc biệt chọn ra 80 cô gái xinh đẹp và cho họ ăn mặc áo hoa gấm lụa, cho họ học vũ đạo, hơn nữa còn chọn thêm 120 con ngựa tốt để cung phụng Vua Lỗ Định Công ăn chơi hưởng lạc. Vua Tề Cảnh Công làm như vậy nhằm để việc chơi bời hưởng lạc ăn mòn ý chí của Lỗ Định Công. Kế sách này quả nhiên có hiệu quả, Lỗ Định Công chìm đắm vào ca múa dâm lạc, không còn hỏi han đến việc triều chính nữa.Hình minh họa trò Tử Lộ của Khổng Tử thấy tình hình ấy thì hỏi Khổng Tử “Thưa thầy! Chúng ta hãy rời khỏi nơi này đi!”Khổng Tử trả lời“Nước Lỗ hiện giờ sắp làm tế lễ ở vùng ngoại ô. Nếu họ có thể chiểu theo lễ pháp là biếu thịt sau tế lễ cho các quân thần thì chúng ta có thể ở lại, không đi nữa.”Kết quả là Vua Lỗ Định Công đã vi phạm nghi thức bình thường, không đem thịt sau cúng tế phân phát cho các đại thần. Vì thế, Khổng Tử đã rời khỏi nước Lỗ, sang nước tới nước Vệ, vua của nước Vệ là Vệ Linh Công hỏi Khổng Tử rằng “Bổng lộc của ông ở nước Lỗ được bao nhiêu?” Khổng Tử trả lời rằng, ông được sáu vạn đấu gạo. Thế là vua Vệ Linh Công cũng trả cho ông từng đó học trò đi theo Khổng Tử gặp được chỗ an thân, ai nấy đều vô cùng mừng rỡ. Tử Lộ đặc biệt vui vẻ hỏi Khổng Tử “Vua nước Vệ cho thầy cai quản việc triều chính thì trước tiên thầy sẽ làm gì?”Khổng Tử suy nghĩ một lát rồi nói “Ta nghĩ trước tiên phải sửa cho đúng cái danh phận.”Tử Lộ không khách khí hỏi “Thầy có phần cổ hủ rồi. Việc này đâu có gì mà phải cải chính ạ?”Khổng Tử nói “Con thật là sơ suất! Người quân tử chỉ hoài nghi những gì mà trong tâm chưa rõ. Danh phận không chính thì đạo lý cũng sẽ giảng không thông. Đạo lý không được giảng thông thì sự tình làm cũng sẽ không thành. Sự tình làm không thành thì việc giáo hóa lễ nhạc của quốc gia cũng sẽ không thiết lập được. Giáo hóa lễ nhạc mà không hưng thì hình phạt sẽ không thỏa đáng. Hình phạt không thỏa đáng thì dân chúng sẽ không biết xử sự như thế nào cho phải. Cho nên, danh phận mà người quân tử dùng nhất định phải có thể nói ra đạo lý, đạo lý nói ra thì nhất định phải làm được thông.”Xã hội thời xưa, cổ nhân vô cùng coi trọng “danh chính ngôn thuận”, mấy ngàn năm qua cũng đều là như vậy. Ngày nay có rất nhiều người là “hữu danh vô thực”, như thế cũng chính là “danh không chính” cho nên “ngôn không thuận” và “sự không thành”.An Hòa t/hXem thêm Below are sample sentences containing the word "danh chính ngôn thuận" from the Vietnamese Dictionary. We can refer to these sentence patterns for sentences in case of finding sample sentences with the word "danh chính ngôn thuận", or refer to the context using the word "danh chính ngôn thuận" in the Vietnamese Dictionary. 1. Do đó, Lưu Dực danh chính ngôn thuận ở lại kinh sư. 2. Iroh là người danh chính ngôn thuận được thừa kế ngai vàng của Hỏa Quốc cho đến khi em trai Ozai đoạt ngôi sau khi Hỏa vương Azulon băng hà. 3. Cuộc nổi dậy này đã có được sự danh chính ngôn thuận, vì Vetranio được hỗ trợ bởi Constantina, và Constantius II công nhận Vetranio, bằng việc gửi cho ông chiếc vương miện hoàng đế. 4. Sau cái chết của Zoe thì lần hôn nhân thứ ba này xét cho cùng lại không được danh chính ngôn thuận, nhưng ông vẫn cứ kết hôn nữa, chỉ đến khi người vợ thứ ba Eudokia Baïana mất vào năm 901. 5. Dựa trên những bức bích họa này, Gabriele Höber-Kamel đưa ra phát biểu rằng "không ai có thể nói rằng Thutmosis III bị người cô đẩy ra rìa hay không được bà ta xem như là một vị vua danh chính ngôn thuận". 6. Ngoài ra trong hiệp ước còn có điều khoản quy định người Ottoman không công nhận Karl là "Hoàng đế" mà chỉ là "Vua Tây Ban Nha", còn Suleiman I mới là người danh chính ngôn thuận giữ tước hiệu cao quý "Hoàng đế La Mã" Caesar. 7. Quân đội Nga đã đoạt lấy Phần Lan một cách dễ dàng, và Elizaveta bèn quyết định lập Công tước Karl Pyotr làm người kế thừa ngôi vị Hoàng đế của bà vì bản thân Nữ hoàng không có người kế vị nào danh chính ngôn thuận như Pyotr. Tra cứu Từ điển Tiếng Việt - từ danh chính ngôn thuận danh chính ngôn thuận Đủ tư cách, có chức năng để đảm trách, giải quyết công việc nào đó, được pháp luật hoặc mọi người thừa nhận, ví như có danh nghĩa đàng hoàng, chính danh thì lời ăn tiếng nói mới có sức thuyết phục, mới xuôi. Nguồn tham khảo Đại Từ điển Tiếng Việt danh chính ngôn thuận ng H. chính đúng; ngôn lời nói; thuận không trái Có đúng danh nghĩa thì nói người ta mới nghe Muốn cho người ta tin theo phải có danh chính ngôn thuận NgHTưởng. Nguồn tham khảo Từ điển - Nguyễn Lân * Từ tham khảo danh diện danh dự danh định danh động từ danh gia * Tham khảo ngữ cảnhTrần Hãng đã đi lại , hẹn ước với các tướng văn tướng võ từ trước , nếu biết thừa cơ quyết đoán , vạch tội giết vua của Quý Ly , hiệp sức với Khả Vĩnh mà giết nó đi , thì danh chính ngôn thuận , mà việc cũng xong rồi. * Từ đang tra cứu Ý nghĩa của từ, giải nghĩa từ danh chính ngôn thuận * Xem thêm Từ điển Giúp đọc Nôm và Hán Việt Bài mới Vài nét về chữ Nôm, nguồn gốc và sự phát triển Truyện Kiều Ngẫm hay muôn sự tại Trời, Trời kia đã bắt làm người có thân Khái lược Về Văn học Chữ Nôm Ở Việt Nam Cấu tạo và nguồn gốc của chữ Nôm – chữ của dân tộc Việt Nam Sấm Trạng Trình ký bản chữ Nôm Danh chính ngôn thuận TBKTSG – Sự tham gia hạn chế của cộng đồng doanh nghiệp trong các vấn đề có liên quan đến chính sách thương mại quốc tế có thể là một trong những nguyên nhân khiến việc tận dụng những lợi thế, vượt qua các thách thức từ các cam kết thương mại quốc tế hiện tại của chúng ta còn không ít bất cập. Lấy ý kiến doanh nghiệp một tỷ lệ quá thấp Thời gian gần đây, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đã có nhiều cơ hội hơn để tham gia vào quá trình hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật nội địa. Điều này đã bước đầu mang lại những kết quả tích cực. Một hệ thống pháp luật về hoạt động kinh doanh đầu tư với những thay đổi căn bản theo hướng thông thoáng hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu doanh nghiệp, từ đó giúp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và sự phát triển của nền kinh tế là một minh chứng cho việc này. Tuy nhiên, sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp vào các chính sách, cam kết thương mại quốc tế của Việt Nam chưa có được sự phối hợp công – tư như vậy. Luật Ký kết và Gia nhập Điều ước quốc tế 2005, văn bản cơ sở về vấn đề này, không có quy định bắt buộc nào về việc lấy ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp, cũng không có cơ chế nào để cộng đồng này được thông tin về định hướng đàm phán cũng như không có kênh chính thức nào để chủ động có tiếng nói, phản ánh nguyện vọng của mình đối với quá trình này. Trên thực tế, dù không có quy định, đâu đó trong các đàm phán thương mại quốc tế đặc biệt trong đàm phán gia nhập WTO, một số cơ quan bộ ngành vẫn lấy ý kiến và sử dụng thông tin từ doanh nghiệp, hiệp hội. Tuy nhiên, điều này là chưa đủ bởi việc tham gia này của doanh nghiệp không ổn định phụ thuộc vào ý chí của cơ quan đàm phán, thiếu tính tin cậy do thông tin không phải lúc nào cũng được chuẩn bị đầy đủ để cung cấp khi được yêu cầu, không mang tính đại diện bởi không phải tất cả các doanh nghiệp, các ngành liên quan đến vấn đề được hỏi đều được lấy ý kiến – và do đó hiệu quả của việc góp ý giảm sút rất nhiều. Sự thiếu vắng một cơ chế chính thức cho hoạt động quan trọng này cũng như thực tế tham gia hạn chế của cộng đồng doanh nghiệp trong các vấn đề có liên quan đến chính sách thương mại quốc tế có thể là một trong những nguyên nhân khiến việc tận dụng những lợi thế, vượt qua các thách thức từ các cam kết thương mại quốc tế hiện tại của chúng ta còn không ít bất cập. Điều này đã được phản ánh khá rõ qua kết quả điều tra sơ bộ về vấn đề này đối với 30 hiệp hội ngành nghề mà Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI thực hiện mới đây. Ví dụ, với các câu hỏi về số lần hiệp hội được hỏi ý kiến trong quá trình Việt Nam đàm phán gia nhập WTO và các cam kết mở cửa thương mại khác, kết quả cho thấy ngay cả đối với quá trình đàm phán gia nhập WTO, một trường hợp được xem là hỏi ý kiến doanh nghiệp nhiều nhất thì cũng có đến gần 70% số hiệp hội không được hỏi ý kiến. Tỷ lệ này còn cao hơn đối với các trường hợp đàm phán các FTA và hiệp định thương mại trước đây trên 81%.Tình trạng này thậm chí còn kém hơn nữa đối với các đàm phán hiện tại trên 88%. Đặc biệt, số liệu điều tra còn cho thấy trong đàm phán WTO, những trường hợp doanh nghiệp được hỏi ý kiến nhưng hiệp hội thì không cũng có tỷ lệ xấp xỉ 13% khiến tính đại diện của ý kiến thu thập được không cao và chỉ thể hiện lợi ích của một nhóm doanh nghiệp nhất định trong ngành. Doanh nghiệp vai trò mờ nhạt Kết quả điều tra về nguồn thông tin mà hiệp hội sử dụng để cung cấp cho cơ quan đàm phán cũng gây lo ngại. Nguồn thông tin chủ yếu được sử dụng gần 30% lại xuất phát từ các phương tiện thông tin đại chúng với nguồn và mức độ chính xác ít được kiểm chứng và phục vụ các mục tiêu đưa tin khác nhau. Bên cạnh đó, một nguồn thông tin quan trọng khác mà hiệp hội cung cấp cho cơ quan đàm phán trong những trường hợp hiếm hoi được hỏi ý kiến là thông tin tình hình sản xuất kinh doanh của thành viên mà hiệp hội thu thập định kỳ, không nhằm cho việc góp ý đàm phán trong khi thông tin phục vụ mục tiêu này đòi hỏi tính dự báo về tương lai và khả năng cạnh tranh tiềm năng của doanh nghiệp. Không được tham gia vào quá trình đàm phán, cũng không được hướng dẫn đầy đủ và chính xác về nội dung các cam kết khi kết thúc đàm phán, các hiệp hội có thông tin và kiến thức rất hạn chế về tình hình thị trường, về các cam kết, các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp ở Việt Nam biểu đồ 3 cũng như ở thị trường nước ngoài biểu đồ 4 – họ chủ yếu chỉ biết sơ qua hoặc không biết gì. Với các hiệp hội, đơn vị được suy đoán là phải nắm vững thông tin để hỗ trợ các doanh nghiệp thành viên, tình hình còn như vậy thì không khó để thấy được doanh nghiệp khó khăn như thế nào trong việc bắt kịp các cơ hội và vượt qua các thách thức do các cam kết quốc tế mang lại. Đặc biệt, kết quả điều tra cũng cho thấy khả năng của hiệp hội trong việc phát hiện các biện pháp quy định, thủ tục của chính phủ nước ngoài vi phạm WTO gây thiệt hại cho mình là rất hạn chế gần 15% không biết thông tin gì, gần 50% chỉ biết sơ qua. Tình trạng không khá hơn đối với thông tin về các loại rào cản thương mại ở nước ngoài. Điều này có thể khiến cho việc bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài khó khăn hơn nhiều, và từ đó có thể làm triệt tiêu nhiều lợi ích mà hội nhập mang lại. Trong khi đó, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế ở cả các nước phát triển và đang phát triển đều cho thấy nếu việc cam kết và đàm phán thương mại quốc tế của Chính phủ có sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp thì hiệu quả hội nhập sẽ được tăng cường một cách đáng kể cho cả hai phía. Về phía các cơ quan đàm phán, việc doanh nghiệp tham gia ý kiến và cung cấp thông tin sẽ mang đến cho các cơ quan này thêm một “nguồn nguyên liệu đầu vào” phong phú và nhiều chiều. Trong hoàn cảnh các đàm phán thương mại hiện đại hầu hết đều là đàm phán cả gói trên nhiều ngành nghề, đây là yếu tố rất quan trọng để các cơ quan này tính toán nhằm đạt được mức đàm phán phù hợp. Cụ thể, thông qua ý kiến của doanh nghiệp, các cơ quan đàm phán không chỉ được cung cấp thông tin đầy đủ về nhiều vấn đề khác nhau mà với mỗi vấn đề còn có quan điểm từ nhiều góc độ khác nhau. Theo logic thông thường, ngành nào cũng muốn bảo vệ tối đa lợi ích của ngành mình với tất cả các lập luận, lý lẽ có thể và thông tin mà họ đưa ra phục vụ mục tiêu này về cơ bản mang tính chủ quan và bị ảnh hưởng bởi yếu tố lợi ích. Vấn đề quan trọng là với sự tham gia phản biện của họ, cơ quan đàm phán có đầy đủ thông tin về tất cả các yếu tố liên quan để từ đó có tính toán hợp lý nhất có thể. Nói cách khác, nếu không có sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp hoặc có nhưng không đầy đủ thiếu một số ngành nhất định, việc tính toán về điểm cân bằng lợi ích trong đàm phán cả gói của cơ quan đàm phán có thể bỏ qua những yếu tố quan trọng cần thiết để đạt được kết quả khách quan và phù hợp. Ngoài ra, những cam kết xuất phát từ thông tin do doanh nghiệp, hiệp hội cung cấp cũng sẽ là cơ sở để đạt được một sự đồng thuận trong xã hội cho quá trình thực thi, một điều mà không phải khi nào cũng có được đối với những cam kết chỉ dựa trên ý chí chủ quan của các cơ quan nhà nước. Về phía các doanh nghiệp, việc tham gia vào quá trình này là một cơ hội tốt để tiếng nói, lợi ích, đề xuất của các ngành được cơ quan đàm phán biết đến và tính đến trong quá trình hoạch định, đàm phán và thực thi các cam kết quốc tế. Từ đó lợi ích của ngành có thể được hiểu rõ hơn và được bảo vệ trong quá trình mở cửa, hội nhập. Tất nhiên, không phải mọi đề xuất của doanh nghiệp đều được chấp nhận bởi điều này là không thể, tuy nhiên cơ hội để được trình bày bản thân nó đã là một lợi thế cho doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh, và nếu lập luận thuyết phục và hợp lý, rất có thể đề xuất đó sẽ được tính đến trong quá trình đàm phán. Ngoài ra, chính trong quá trình tập hợp thông tin, thảo luận trong ngành với nhau và với các đơn vị liên quan khác để có thể có ý kiến hợp lý với các cơ quan liên quan cũng là cơ hội để doanh nghiệp nâng cao kiến thức thương mại quốc tế, điều rất cần thiết cho quá trình kinh doanh của họ. Hơn nữa, tham gia vào quá trình này, cộng đồng doanh nghiệp có cơ hội rất tốt để được thông tin về các xu hướng đàm phán từ đó có thể chủ động trong việc hoạch định chính sách, phát triển kinh doanh cũng như bảo vệ lợi ích của mình trong quá trình hội nhập. Cũng bằng việc này, doanh nghiệp sẽ có sự chuẩn bị trước để không bị “sốc” trong quá trình thực thi các cam kết khi chúng có hiệu lực. Trong mối quan hệ với quá trình tham gia xây dựng pháp luật trong nước của doanh nghiệp, việc góp ý và đưa đề xuất ngay từ giai đoạn hoạch định chính sách thương mại quốc tế sẽ giúp quá trình tương tự trong pháp luật trong nước có ý nghĩa và thực chất hơn. Điều này hoàn toàn dễ hiểu nếu biết rằng hiện tại pháp luật trong nước bị “chặn trên và dưới” bởi các cam kết quốc tế đặc biệt trong các vấn đề liên quan đến mở cửa thị trường dịch vụ và thuế quan theo nghĩa pháp luật trong nước phải đảm bảo tuân thủ các nghĩa vụ đã cam kết trong khuôn khổ các hiệp định thương mại quốc tế đã có hiệu lực.

danh chính ngôn thuận